Cùng với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế, tình trạng thừa cân và béo phì ngày càng tăng trong cộng đồng. Béo phì đang được xem là một trong những nguyên nhân của nhiều chứng bệnh như đau nửa đầu, cao huyết áp, gan nhiễm mỡ, tim mạch, tiểu đường và cả nguy cơ gây vô sinh. Hãy cùng IVFMD tìm hiểu về mối liên hệ giữa béo phì và khả năng sinh sản.
Khi nào được gọi là béo phì?
Béo phì là tình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ và có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào. Để đánh giá người có tình trạng béo phì thường dựa trên chỉ số BMI từ 30 trở lên (BMI: một thước đo lượng mỡ trong cơ thể dựa trên chiều cao và cân nặng). Phân loại chẩn đoán thừa cân béo phì theo Tổ chức y tế thế giới 2004 như hình dưới:
Phân loại mức độ thừa cân béo phì theo Tổ chức Y tế Thế giới 2004
Mối liên hệ giữa béo phì và khả năng sinh sản
Đối với nữ giới:
Rối loạn nội tiết và chuyển hóa: Béo phì gây mất cân bằng nội tiết tố, đặc biệt là những nội tiết liên quan đến rụng trứng, dẫn đến chu kỳ kinh nguyệt không đều hoặc không rụng trứng .Những người bị rối loạn nội tiết và chuyển hóa như mãn kinh, rối loạn chuyển hóa đường, rối loạn mỡ máu,… sẽ kích thích tạo nên mô mỡ trong cơ thể đây được xem là nguyên nhân chính gây nên béo phì.
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS): Đây là một tình trạng đặc trưng bởi sự mất cân bằng nội tiết tố và rối loạn kinh nguyệt, có thể ảnh hưởng đến khoảng 7% phụ nữ trong độ tuổi trưởng thành. PCOS khiến cơ thể khó sử dụng hormone insulin (hormone này giúp chuyển hóa đường và tinh bột từ thực phẩm thành năng lượng), tình trạng này được gọi là kháng insulin khiến cho insulin và đường, glucose tích tụ trong máu. Sự mất cân bằng nội tiết, đề kháng insulin và viêm liên quan đến tình trạng này khiến phụ nữ bị PCOS rất khó giảm cân.
Ảnh hưởng đến nội mạc tử cung: Các cytokine tiền viêm và gốc oxy hóa tự do gây rối loạn chức năng nội mô ảnh hưởng đến sự xâm nhập của các nguyên bào nuôi vào nội mạc tử cung, dẫn đến làm giảm khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung, giảm khả năng làm tổ và tăng tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ béo phì.
Giảm tỷ lệ thành công của điều trị hỗ trợ sinh sản: Béo phì có thể làm giảm tỷ lệ thành công của các phương pháp điều trị như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) do gia tăng thời gian kích thích buồng trứng, lượng thuốc sử dụng, giảm số lượng nang trứng chọc hút được và tăng nguy cơ hủy chu kỳ do chất lượng noãn kém hoặc quá nhiều (kích thích quá mức) cao hơn. Từ đó giảm tỷ lệ trẻ mang thai và sinh sống, kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản kém hơn.
Giảm ham muốn tình dục: Trọng lượng cơ thể tăng có thể dẫn đến tăng globulin gắn với hormone giới tính, khiến hormone sinh dục testosterone giảm. Do hormone giới tính giảm mạnh nên gây ảnh hưởng đến việc giảm ham muốn tình dục ở cả nữ giới và nam giới.
Tăng nguy cơ sảy thai: Một số nghiên cứu chỉ ra rằng những phụ nữ thừa cân, béo phì có tỷ lệ sảy thai cao gấp 3 lần so với những phụ nữ có trạng thái cơ thể ổn định và làm tăng nguy cơ sảy thai tái phát về sau.
Tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ: Sau khi thụ thai, béo phì có thể làm tăng nguy cơ biến chứng như: tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, sản giật, đái tháo đường thai kỳ, chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, xuất huyết và huyết khối khi mang thai, nguy cơ nhiễm trùng sau sinh, phải can thiệp y tế để chuyển dạ như sinh mổ, sinh hỗ trợ, sinh khó,....
Tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh: Mẹ béo phì làm tăng nguy cơ trẻ mắc một số dị tật bao gồm dị tật ống thần kinh, dị tật tim, sứt môi, hở hàm ếch, hẹp hậu môn trực tràng, não úng thủy, bất thường chi, tử vong sau sinh, ngạt sơ sinh,….các tình trạng này có thể gây ra khuyết tật suốt đời hoặc thậm chí tăng nguy cơ tử vong ở trẻ.
Tăng nguy cơ béo phì cho trẻ khi sinh ra: Trẻ sinh ra từ những phụ nữ béo phì có khả năng sẽ lớn cân, cần chăm sóc đặc biệt sau sinh, bị dị tật bẩm sinh, có vấn đề về sức khỏe trong thời thơ ấu và sau này trở nên béo phì.
Đối với nam giới:
Khi cơ thể có nhiều mỡ dư thừa sẽ làm tăng hoạt động của men aromatase và nồng độ estradiol – đây là chất gây ức chế nội tiết sinh dục của tuyến yên ở nam giới. Đồng thời, chỉ số khối BMI càng tăng thì nồng độ testosterone (hormone sinh dục nam) trong máu càng giảm và ngược lại.
Từ đó, làm suy giảm chức lượng tinh trùng và làm tăng nguy cơ rối loạn cương dương ở nam giới. Dẫn đến làm giảm khả năng thụ thai và các vấn đề về sức khỏe khác như ngưng thở khi ngủ, tăng nhiệt độ vùng bìu. Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, BMI tăng liên quan đến giảm mật độ tinh trùng, giảm tỉ lệ tinh trùng di chuyển và tăng tỉ lệ vô sinh ở nam giới.
Thừa cân ở nam giới cũng là nguyên nhân gây vô sinh
Cách khắc phục nguy cơ vô sinh do béo phì
Tình trạng béo phì không những ảnh hưởng đến chức năng sinh sản mà còn ảnh hưởng đến kết cục điều trị hỗ trợ sinh sản ở những cặp vợ chồng mong con. Vì vậy, việc tích cực giảm cân là phương pháp hiệu quả và vô cùng cần thiết đối với những bệnh nhân đang điều trị vô sinh. Khi cân nặng ở mức tiêu chuẩn, tăng tính thẩm mỹ, chu kỳ kinh nguyệt ổn định giúp tăng ham muốn ở cả nam và nữ, khả năng có thai tự nhiên được tăng lên.
Một số giải pháp giúp giảm cân như:
Việc điều chỉnh lối sống để có một lối sống lành mạnh, không thức khuya, dậy trễ, không sử dụng các chất kích thích và hạn chế ăn vặt vào ban đêm.
Lên kế hoạch cho một chế độ dinh dưỡng khoa học và cân đối, tránh các loại thức ăn chứa nhiều chất béo xấu và đường cao.
Tăng cường tập luyện thể dục thể thao khoa học nên được bắt đầu càng sớm càng tốt để có thể cải thiện tình trạng sức khỏe.
Không lạm dụng thực phẩm chức năng hay nhưng thuốc giảm cân không rõ nguồn gốc gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nên gặp bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng để được hỗ trợ.
Giảm cân là phương pháp hiệu quả và vô cùng cần thiết đối với những bệnh nhân đang điều trị vô sinh
Béo phì hiện nay được xem là một bệnh lý nguy hiểm và nguyên nhân gây vô sinh ít ai ngờ đến. Khi cơ thể ở tình trạng béo phì kéo dài sẽ gây nên nhiều tổn thương và ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. Vì vậy, khi bản thân thấy có dấu hiệu của việc thừa cân thì nên tự điều chỉnh và thay đổi lối sống để có một sức khỏe tốt hơn.