NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ GIẢM DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG

“Giảm dự trữ buồng trứng” là tình trạng suy giảm số lượng trứng không hồi phục, nguyên nhân có thể do yếu tố tuổi, di truyền, điều trị thuốc, điều trị phẫu thuật và môi trường. Càng lớn tuổi thì dự trữ buồng trứng càng giảm và đây cũng là nguyên nhân chính làm giảm chức năng sinh sản của nữ giới. Vậy nguyên nhân do đâu và phương pháp điều trị là gì? Hãy cùng IVFMD tìm hiểu qua bài viết bên dưới nhé.

Dự trữ buồng trứng (AMH) là gì?

AMH (Anti-Mullerian Hormone) là một loại hormone được sản xuất bởi các tế bào hạt của nang buồng trứng.

Chỉ số AMH cho biết số lượng nang noãn nguyên thủy có trong buồng trứng của bạn, và được xác định qua xét nghiệm máu. Xét nghiệm AMH được các Bác sĩ dùng để đánh giá dự trữ buồng trứng cũng như dự đoán khả năng đáp ứng của buồng trứng khi tiến hành điều trị hiếm muộn.

AMH không phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt, tuy nhiên nó có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuổi, môi trường và di truyền.

AMH bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuổi, môi trường và di truyền

Giảm dự trữ buồng trứng là gì?

Giảm dự trữ buồng trứng (diminished ovarian reserve – DOR) là tình trạng suy giảm số lượng trứng không hồi phục, nguyên nhân có thể do yếu tố tuổi, di truyền, điều trị thuốc, điều trị phẫu thuật và môi trường.

Phụ nữ có giảm dự trữ buồng trứng liên quan đến ít đáp ứng với kích thích buồng trứng, tỉ lệ ngưng chu kỳ cao, và tỉ lệ trẻ sinh sống thấp khi thực hiện hỗ trợ sinh sản. Hình thái nghiêm trọng nhất của giảm dự trữ buồng trứng là suy buồng trứng sớm với đặc trưng là không có kinh nguyệt, tăng nồng độ gonadotropin ở độ tuổi dưới 40.

Giảm dự trữ buồng trứng

Nguyên nhân giảm dự trữ buồng trứng:

Mỗi bé gái sinh ra với số lượng tế bào noãn nhất định ở hai buồng trứng. Theo Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ, đây là số lượng noãn trung bình ở mỗi độ tuổi của một người bình thường

  • Khi sinh ra: 1 – 2 triệu tế bào noãn
  • Tuổi dậy thì: 300.000 – 500.000 tế bào noãn
  • Sau 35 tuổi: khoảng 25.000 tế bào noãn
  • Khi bắt đầu mãn kinh: khoảng 1.000 tế bào noãn

Ngoài việc giảm số lượng, tỉ lệ bất thường của noãn cũng tăng dần theo tuổi. Dẫn đến tăng tỉ lệ sẩy thai, tăng biến chứng trong thai kỳ, tăng tỷ lệ trẻ bất thường.

Một số yếu tố góp phần làm giảm dự trữ buồng trứng nhanh hơn như:

– Do bất thường di truyền

– Phẫu thuật buồng trứng, chẳng hạn như phẫu thuật lạc nội mạc tử cung

– Điều trị xạ trị

– Hút thuốc

– Vô căn (nghĩa là không có nguyên nhân rõ ràng)

Phẫu thuật buồng trứng

Phương thức đánh giá dự trữ buồng trứng

Có 2 cách thường dùng nhất với độ nhạy cao, đơn giản và dễ áp dụng: xét nghiệm AMH (viết tắt của Anti-Mullerian Hormone) và siêu âm đếm nang noãn thứ cấp vào đầu chu kỳ kinh (AFC)

Khi nồng độ AMH < 0.5 – 1.1 ng/ml hoặc AFC < 5-7 nang thì được đánh giá là giảm dự trữ buồng trứng.

AMH không đánh giá chất lượng noãn, nhưng có thể giúp tiên lượng khả năng đáp ứng thuốc kích thích buồng trứng và số lượng noãn chọc hút được.

Xét nghiệm AMH

Hướng điều trị ở bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng

  • Hiện tại chưa có phương pháp nào có thể ngăn chặn quá trình lão hóa của buồng trứng và làm tăng số lượng trứng trong cơ thể. Vậy nên, khi bạn được chẩn đoán giảm dự trữ buồng trứng các chuyên gia sẽ khuyến khích bạn nên điều trị càng sớm càng tốt với mong muốn có thể giảm sự ảnh hưởng của thời gian lên chất lượng và số lượng trứng thông qua các công nghệ hỗ trợ sinh sản bơm tinh trùng vào buồng tử cung hoặc thụ tinh trong ống nghiệm để tăng cơ hội có thai.
  • Khi tiên lượng điều trị thành công thấp do dự trữ buồng trứng đã giảm nhiều thì phương pháp tiếp theo là xin trứng của người cho. Khi đó cơ hội có thai của xin trứng sẽ cao hơn.
  • Trữ noãn (thường được gọi là trữ trứng) được coi là một giải pháp bảo tồn khả năng sinh sản cho phụ nữ ở mọi độ tuổi. Việc lưu trữ noãn khá đơn giản, bạn sẽ được kích thích buồng trứng và chọc hút lấy noãn ra để đông lạnh, ngay khi trữ đông, đồng hồ sinh học của noãn sẽ dừng lại, điều đó nghĩa là nếu bạn trữ noãn ở năm 20 tuổi nhưng đến năm 40 tuổi mới sử dụng thì chất lượng noãn vẫn sẽ được bảo tồn như khi bắt đầu trữ đông.
  • Ngoài việc trữ noãn với các phác đồ kích thích buồng trứng thông thường, hiện nay tại IVFMD còn có thể trữ noãn từ phương pháp nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm (IVM). Đây là một kỹ thuật mới và đã được phát triển thành công trên thế giới trong hơn một phần tư thế kỷ qua.
  • Yếu tố lớn tuổi đi kèm với giảm dự trữ buồng trứng thường có thể tiên lượng đáp ứng kém với thuốc kích buồng trứng ở các phác đồ thông thường. Nhưng sự ra đời của kỹ thuật IVM như mở ra một trang mới với các trường hợp này cùng với nhóm phụ nữ bị ung thư (đây là nhóm nhạy cảm với nội tiết estrogen). Với ưu điểm không tiêm kích thích buồng trứng hoặc chỉ tiêm kích thích buồng trứng nhẹ rồi chọc hút trứng ra ngoài và nuôi trưởng thành trong một môi trường chuyên biệt (quá trình kéo dài khoảng 2-3 ngày). Qua đó giúp giảm chi phí và thời gian điều trị.

Giảm dự trữ buồng trứng thường không ngăn ngừa được. Khoa học hiện nay vẫn chưa tìm ra được cách giảm việc suy giảm buồng trứng. Tuy nhiên, khi tuổi đã lớn hoặc bạn có dấu hiệu nghi ngờ giảm dự trữ buồng trứng. Bạn hãy đến ngay cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám và điều trị kịp thời. Lúc này, bạn có thể lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản bằng cách đông lạnh noãn hoặc mang thai sớm hơn.